Một số bất cập trong thực thi quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính

Một số bất cập trong thực thi quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính

BỐI CẢNH VIỆT NAM

     Về lý thuyết, để thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam, có ba hình thức xử lý các hành vi xâm phạm quyền là: biện pháp hành chính, biện pháp dân sự và biện pháp hình sự. Tuy nhiên, trên thực tế, biện pháp thực thi hiệu quả nhất sẽ phụ thuộc vào một số yếu tố như: tính chất của hành vi xâm phạm, đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm và quy định tương ứng, năng lực và kinh nghiệm của cơ quan chức năng, yêu cầu và mục đích thực thi của chủ thể quyền … Ví dụ, nếu hành vi xâm phạm quyền có đủ yếu tố cấu thành tội phạm (ngoại trừ bằng sáng chế, thiết kế bố trí, tên thương mại), biện pháp hình sự sẽ là giải pháp thực thi tốt nhất, hiệu quả nhất; tuy nhiên nếu chủ thể quyền rút yêu cầu (đề nghị không khởi tố) thì cơ quan chức năng cũng sẽ xem xét dừng xử lý vụ việc theo yêu cầu của chủ thể quyền…

     Cho đến nay, xét từ khía cạnh thực tiễn thì các biện pháp hành chính vẫn được coi là con đường hiệu quả nhất vì: phần lớn các trường hợp vi phạm không đủ yếu tố cấu thành tội phạm và để thực thi bằng biện pháp dân sự và đòi bồi thường thiệt hại, cần phải chứng minh thiệt hại thực tế do hành vi xâm phạm gây ra, rất phức tạp, khó khăn… Trong khi đó, thực thi bằng biện pháp hành chính sẽ đơn giản và nhanh chóng, đặc biệt trong trường hợp chủ thể quyền bị xâm phạm ưu tiên lựa chọn và mong muốn hành vi xâm phạm phải bị chấm dứt nhanh nhất có thể.

      CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

     Dưới đây là một số bất cập nổi lên trong thời gian gần đây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động thực thi và bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng các biện pháp hành chính theo Nghị định 99/2013*.

     1) Về thẩm quyền xử phạt của cơ quan quản lý thị trường

     Quy định 1: “Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng dấu hiệu xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại trên biển hiệu, giấy tờ giao dịch kinh doanh, phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, bao bì hàng hóa.” (Khoản 15 Điều 11)

     Quy định 2: Quản lý thị trường có thẩm quyền xử phạt các hành vi vi phạm sau đây:

     b) Hành vi vi phạm quy định tại các Điều 6, 9, 11 và 14 của Nghị định này trong hoạt động buôn bán, vận chuyển hàng hóa tại thị trường trong nước. Trong trường hợp xử lý hành vi vi phạm quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều này mà xác định được cơ sở sản xuất loại hàng hóa đó thì Quản lý thị trường có thẩm quyền tiếp tục xử lý hành vi vi phạm tại cơ sở sản xuất.” (Khoản 3 b) Điều 15)

     Từ khi Luật Sở hữu trí tuệ 2005 có hiệu lực, các cơ quan Quản lý thị trường vẫn thụ lý và giải quyết rất nhiều các vụ việc xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu là biển hiệu kinh doanh hoặc dấu hiệu xâm phạm quyền với nhãn hiệu trên phương tiện kinh doanh khác như trên website thương mại …

     Gần đây có một số ý kiến, quan điểm cho rằng: theo quy định tại khoản 3 Điều 15 của Nghị định 99 thì Quản lý thị trường không có thẩm quyền xử phạt hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền nhãn hiệu trên biển hiệu, trên phương tiện kinh doanh vì cho rằng Quản lý thị trường chỉ có thẩm quyền kiểm tra và xử lý xâm phạm liên quan đến hàng hóa trong lưu thông (vận chuyển), buôn bán. Thực tế trên dẫn đến một số hệ quả là: i) Cơ quan quản lý thị trường từ chối thụ lý vụ việc về xâm phạm quyền nhãn hiệu gắn trên phương tiện kinh doanh như biển hiệu; hoặc ii) Từ chối phần nội dung yêu cầu xử lý đối với hành vi xâm phạm quyền trên biển hiệu; và/hoặc iii) Cơ quan đã thụ lý hồ sơ phải xin ý kiến chuyên môn cơ quan cấp trên/họp hội đồng tư vấn để xin ý kiến mất rất nhiều thời gian và công sức…

     Có thể thấy rõ, nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng trên là do quy định của pháp luật chưa thực sự rõ ràng và thiếu sự hướng dẫn áp dụng thống nhất từ các cơ quan có thẩm quyền.

     2) Việc áp dụng quy định về thủ tục và văn bản ủy quyền

     Quy định 1: “Văn bản ủy quyền của tổ chức, cá nhân nước ngoài phải có xác nhận của công chứng hoặc chính quyền địa phương hoặc lãnh sự quán, hoặc hình thức khác được coi là hợp pháp theo quy định của pháp luật tại nơi lập văn bản ủy quyền.” (Khoản 2 Điều 23).

     Quy định 2: “…Trường hợp văn bản ủy quyền là bản sao của bản gốc văn bản ủy quyền đã nộp trong hồ sơ trước đó cho cùng cơ quan xử lý vi phạm thì cũng được coi là hợp lệ…” (Khoản 3 Điều 23)

     Quy định 3: “Văn bản ủy quyền có giá trị trong thủ tục xác lập quyền theo quy định tại Điều 107 của Luật Sở hữu trí tuệ có ghi rõ nội dung ủy quyền bao gồm thủ tục thực thi, bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp tại Việt Nam thì cũng có giá trị pháp lý trong thủ tục yêu cầu xử lý vi phạm theo quy định tại Nghị định này.”(Khoản 4 Điều 23)

     Quy định 4: “Thời hạn ủy quyền được xác định theo thời hạn ghi trong văn bản ủy quyền….” (Khoản 5 Điều 23)

     Như vậy hình thức văn bản ủy quyền về nguyên tắc được coi là hợp pháp theo quy định của pháp luật tại nơi lập văn bản và phù hợp với các quy định liên quan của pháp luật Việt Nam (chứ không phải theo yêu cầu hay ý muốn chủ quan của cơ quan thực thi).

     Trên thực tế, có cơ quan không chấp nhận bản sao Giấy ủy quyền được sao y tại cơ quan đăng ký là Cục Sở hữu trí tuệ mà yêu cầu phải có giấy ủy quyền gốc được hợp pháp hóa Lãnh sự và/hoặc công chứng – yêu cầu này không đúng với quy định của Nghị định 99 và thực tiễn thực thi từ lâu nay, làm phát sinh thủ tục, thời gian và chi phí cho chủ thể quyền, làm chậm, thậm chí lỡ cơ hội, kế hoạch yêu cầu ngăn chặn hành vi xâm phạm quyền, sản xuất, kinh doanh hàng giả/giả mạo nhãn hiệu. Thậm chí có cơ quan còn yêu cầu trong Hồ sơ kèm theo Đơn yêu cầu xử lý xâm phạm giấy đăng ký kinh doanh/giấy đăng ký doanh nghiệp là chủ thể quyền – chủ sở hữu nhãn hiệu vì cho rằng có thể tại thời điểm nộp Đơn yêu cầu xử lý, Người đại diện ký Giấy ủy quyền (cho Tổ chức dịch vụ đại diện) đã không còn tại chức/đã nghỉ hoặc đã thay đổi công tác/đã chết – điều này là rất phi lý và nhiêu khê cho chủ thể quyền.

     Nguyên nhân của thực trạng trên xuất phát chủ yếu từ việc một số địa phương và một số người có thẩm quyền/cơ quan có thẩm quyền đã hiểu và áp dụng quá máy móc các quy định của pháp luật liên quan.

     3) Việc áp dụng quy định về giám định trong thủ tục xử lý xâm phạm quyền

     Quy định: Luật Sở hữu trí tuệ và Nghị định 99 tại Điều 26 thì Kết luận giám định là nguồn thông tin tham khảo để cơ quan có thẩm quyền xem xét trước khi ra quyết định: “Người có thẩm quyền xử lý vi phạm có thể dựa trên văn bản cam kết xác nhận hàng hóa, dịch vụ giả mạo nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý của chủ thể quyền sở hữu công nghiệp, văn bản ý kiến chuyên môn của cơ quan nhà nước về sở hữu công nghiệp, văn bản kết luận giám định để xác định hành vi vi phạm nhưng phải chịu trách nhiệm”. (Khoản 4).

     Trên thực tế, hầu hết các vụ việc yêu cầu xem xét kiểm tra, xử lý hành vi xâm phạm quyền (với nhãn hiệu bảo hộ), thì chủ thể quyền đều phải thực hiện trước việc giám định và có Kết luận là xâm phạm quyền, thì hồ sơ mới được coi là “tạm đủ” cơ sở để thụ lý, xem xét… Tại một số cơ quan, tại một số địa phương yêu cầu thủ tục “giám định lại” sau khi đã thực hiện thủ tục kiểm tra và tạm giữ hàng hóa, tang vật mang dấu hiệu xâm phạm nhãn hiệu (nghi ngờ xâm phạm). Việc phải giám định lại chính đối tượng (trùng hoàn toàn về chủ thể và mẫu vật) đã giám định, gây lãng phí về thời gian, và phát sinh chi phí cho chủ thể quyền.

     4) Việc áp dụng các hình thức xử phạt hành chính bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả

     Quy định 1: “Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây…” (Khoản 2 Điều 3 Nghị định 99)

     Quy định 2: “Ngoài các hình thức xử phạt chính, hình thức xử phạt bổ sung, tổ chức, cá nhân vi phạm còn có thể bị buộc áp dụng một hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả sau đây…” (Khoản 3 Điều 3 Nghị định 99)

     Quy định trên là khá rõ ràng và cụ thể. Tuy nhiên, gần đây, có quan điểm cho rằng các biện pháp xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả theo Nghị định 99 cẩn phải được áp dụng theo cách khác, cụ thể là: tất cả các hành vi xâm phạm quyền với nhãn hiệu, ngoài hình thức xử phạt chính (phạt tiền) đều phải áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là: “Đình chỉ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ vi phạm từ 1 đến 3 tháng…” và biện pháp khắc phục hậu quả “Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm hành chính…

     Từ cách hiểu và áp dụng không nhất quán giữa các địa phương, giữa các cơ quan thực thi quyền sở hữu công nghiệp dẫn tới hệ quả là: i) công tác thực thi quyền bị đình trệ, kéo dài (phải trình lên cơ quan có thẩm quyền xử phạt cao hơn, dù hình thức xử phạt chính có mức phạt tiền trong phạm vi khung phạt thuộc thẩm quyền của cơ quan đang thụ lý, xử lý vụ việc); ii) cùng một loại hành vi, nhưng có thể bị áp dụng các biện pháp chế tài áp dụng khác nhau; và iii) các vụ việc đã xử lý có nguy cơ bị khiếu kiện hoặc bãi bỏ, hủy bỏ bởi cơ quan có thẩm quyền do vi phạm về thẩm quyền, thủ tục xử lý kéo theo tâm lý bất an và lo lắng đối với người thi hành công vụ trực tiếp ở các cơ quan cấp dưới vì lo ngại tình trạng “nay đúng, mai sai”…

     Chúng tôi cho rằng, do không có sự thống nhất trong chỉ đạo và hướng dẫn từ các Bộ ngành liên quan: Khoa học Công nghệ, Tư pháp, Công thương (Quản lý thị trường), nên nhiều các vụ việc phát sinh trong thời gian gần đây đã gặp không ít trở ngại và khó khăn, thời gian xử lý kéo dài.

     KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP

     Trước mắt cần sớm có sự hướng dẫn nhất quán từ các cơ quan có thẩm quyền để hiểu và áp dụng pháp luật về thực thi và bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính được thống nhất trong cả nước, giữa các cấp và các cơ quan chức năng khác nhau.

     Về lâu dài, các khái niệm, thuật ngữ gây tranh cãi, có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau cần được định nghĩa hoặc xác định phạm vi cụ thể, rõ ràng trong văn bản pháp luật của cơ quan có thẩm quyền, đặc biệt là trong Nghị định xử phạt hành chính (sửa đổi /thay thế Nghị định 99).