Thương hiệu cho các đặc sản địa phương

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ngày càng diễn ra mạnh mẽ kể cả về chiều sâu và chiều rộng, trong quá trình đó, hoạt động sản xuất và kinh doanh các đặc sản địa phương đã thu được nhiều thành quả to lớn, góp phần nâng cao thu nhập cho đồng bào khu vực có đặc sản. Nổi bật trong số các đặc sản là các sản phẩm: cà phê, gạo, chè, hồ tiêu, ca cao, hạt điều, thuỷ sản….và các sản phẩm làng nghề. Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam đã ký kết các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do với Liên minh châu Âu (EVFTA)… thì các biện pháp trợ cấp, bảo hộ mang tính chất khuyến nông, khuyến công của Nhà nước sẽ dần bị hạn chế, sản phẩm, bao gồm cả các đặc sản của Việt Nam sẽ không còn lợi thế về giá và do đó sẽ bị cạnh tranh gay gắt và quyết liệt không chỉ tại các thị trường xuất khẩu mà còn ngay cả ở thị trường nội địa. Vì vậy, chúng ta cần xây dựng chiến lược nâng cao khả năng cạnh tranh cho nông, lâm, thuỷ sản, các sản phẩm làng nghề và các chính sách hỗ trợ. Một trong những hướng ưu tiên để nâng cao sức cạnh tranh cho nông, lâm, thuỷ sản, các sản phẩm làng nghề của Việt Nam là xây dựng, đăng ký và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) cho các loại sản phẩm này.

Các sản phẩm thanh long Bình Thuận, cà phê Buôn Ma Thuột và vải thiều Lục Ngạn đã được lựa chọn trở thành các “sứ giả văn hóa đặc biệt” để quảng bá về chỉ dẫn địa lý Việt Nam đến người tiêu dùng Nhật Bản

 

Đặc sản địa phương

Trên thế giới, không có khái niệm đồng nhất về sản phẩm đặc sản. Giới chuyên môn và các nhà nghiên cứu sử dụng các thuật ngữ khác nhau để nói tới các đặc sản bản địa: sản  phẩm  địa phương (produit de terroir), sản phẩm nguồn gốc xuất xứ (produit d’origin), sản phẩm địa phương (local product, regional products), đặc sản (specialty)…

Theo nhóm công tác của Ủy ban Nông thôn Québec (Solidarité rural du Québec)1, thì sản phẩm địa phương (produit de terroir) là “sản phẩm (hoặc các thành phần chính của sản phẩm) được sản xuất trong một khu vực địa lý nhất định và đồng nhất và các sản phẩm có đặc tính khác biệt đáng kể với các sản phẩm khác trên thị trường dựa trên những đặc trưng riêng của vùng sản xuất”. Các đặc trưng này phụ thuộc vào các yếu tố liên quan tới vùng lãnh thổ như là điều kiện địa lý, khí hậu, hay những tập quán sản xuất truyền thống và kiến thức bản địa. Người sản xuất làm chủ các giai đoạn sản xuất, chế biến và đưa sản phẩm ra thị trường. Như vậy, để xác định như thế nào là đặc sản, cần lưu ý tới 3 điểm: sự khác biệt (difference), gắn với vùng lãnh thổ (appartenance au terroir) và tri thức truyền thống (neccessité du savoir-faire). Ngoài ra, đặc sản đòi hỏi người sản xuất phải tổ chức các kênh hàng phù hợp để thương mại sản phẩm ra thị trường.

Trên thực tế, các sản phẩm có liên hệ (ít, nhiều) tới địa danh vùng sản xuất thường được gọi là đặc sản hoặc sản phẩm truyền thống (terroir, d’origine hoặc tradionnel).

– Sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ (Produit d’origine): là các sản phẩm có lợi thế về mặt tự nhiên, văn hóa địa phương và sở hữu đặc tính riêng nhưng không nhất thiết là sản phẩm được sản xuất theo phương thức sản xuất truyền thống, cổ truyền.

– Sản phẩm truyền thống (Produit tradtionnel): là kết quả của thực hành sản xuất truyền thống, nhưng nguyên vật liệu ban đầu để sản xuất/chế biến có thể đến từ các nơi khác.

Theo De Kop, Sautier và Gerz (2006), đặc sản là các sản phẩm chỉ có thể sản xuất trong một khu vực địa lý nhất định mà tại đó thực hành sản xuất của con người cộng với yếu tố về văn hóa, trải qua thời gian dài, đã góp phần tạo ra những đặc tính sinh học riêng cho sản phẩm. Do tính đặc thù về địa lý, danh tiếng và chất lượng, đặc sản thường có giá trị gia tăng lớn hơn so với sản phẩm thông thường cùng loại. Giá trị này thuộc về cộng đồng sản xuất sản phẩm trong nhiều năm, thậm chí qua nhiều thế hệ phát triển thành đặc sản mang lại lợi ích lâu dài, bền vững cho cộng đồng địa phương.
Tóm lại, có thể định nghĩa đặc sản như sau: “Đặc sản là sản phẩm có nguồn gốc từ một khu vực, địa phương, vùng địa lý cụ thể, có những tính chất đặc thù về hình thái, chất lượng không giống các sản phẩm cùng loại khác và các đặc tính này chủ yếu có được do các điều kiện tự nhiên, con người vùng sản xuất, chế biến sản phẩm tạo ra”. Nói một cách đơn giản hơn, đặc sản là sản phẩm được sản xuất hay khai thác ở một vùng nhất định theo một quy trình, tập quán khai thác, sản xuất nhất định, có những đặc tính, đặc điểm đặc trưng mà nơi khác không có được.

Thương hiệu cho đặc sản địa phương

Cho đến nay, chưa có một văn bản pháp luật nào về sở hữu trí tuệ quy định về “thương hiệu”, tuy nhiên, thuật ngữ này được sử dụng nhiều trong thương mại và nó có thể được hiểu rằng “Thương hiệu là tổng hợp tất cả các yếu tố vật chất, thẩm mỹ, lý lẽ và cảm xúc của một sản phẩm, hoặc một dòng sản phẩm, bao gồm bản thân sản phẩm, tên gọi, biểu tượng (logo), “hình ảnh” và mọi sự thể hiện hình ảnh, dần qua thời gian được tạo dựng rõ ràng trong tâm trí khách hàng nhằm thiết lập một chỗ đứng tại đó.”

Có thể tạm chia ra mấy đối tượng được gọi là thương hiệu như: Nhãn hiệu (ví dụ: Trung Nguyên, Vinamilk …), Chỉ dẫn địa lý (ví dụ: Phú Quốc, Buôn Ma Thuột…), Tên thương mại (ví dụ: Công ty Cà phê Trung Nguyên, Công ty cà phê Đức Lập…). Việc đăng ký bảo hộ các đối tượng này được quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ 2005 có hiệu lực từ ngày 01/07/2006 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ có hiệu lực từ ngày 01/01/2010 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này.

• Bảo hộ nhãn hiệu

Bảo hộ nhãn hiệu là hình thức phổ biến đối với mọi mặt hàng lưu hành trên thị trường. Chức năng của nhãn hiệu là dùng để phân biệt hàng hoá/dịch vụ cùng loại của chủ thể này và chủ thể khác. Nhãn hiệu có thể bao gồm nhãn hiệu thông thường, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận.

– Nhãn hiệu tập thể: là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó.

– Nhãn hiệu chứng nhận: là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hoá, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu.

• Bảo hộ tên thương mại

Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh.

• Bảo hộ chỉ dẫn địa lý

Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể. Điều kiện chung đối với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ: i) sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có nguồn gốc địa lý từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý; ii) sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính chủ yếu do điều kiện địa lý của khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó quyết định (Điều 79, Luật SHTT, 2005).

Việc bảo hộ tên gọi (nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý) cho đặc sản và/hoặc các dịch vụ truyền thống cũng như tên của chủ thể (tên thương mại) sản xuất/kinh doanh đặc sản và/hoặc các dịch vụ truyền thống là hết sức cần thiết. Việc đăng ký tên gọi cho đặc sản và dịch vụ truyền thống không chỉ đơn thuần là đăng ký bảo hộ mà còn phải được bảo vệ, giữ gìn và phát triển nhằm nâng cao uy tín, ảnh hưởng của sản phẩm/dịch vụ mang tên gọi đó cũng như uy tín của chủ thể tạo ra chúng. Cũng cần lưu ý là, nếu ở thị trường nội địa, mỗi doanh nghiệp có một hoặc nhiều nhãn hiệu cho một sản phẩm/dịch vụ của riêng mình thì khi xuất khẩu có thể nhiều doanh nghiệp phải hợp sức lại dưới một nhãn hiệu chung (nhãn hiệu tập thể). Điều này là cần thiết, nhất là cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn mới thâm nhập thị trường. Ở giai đoạn mới phát triển thị trường, một doanh nghiệp nhỏ đơn độc với một nhãn hiệu của riêng mình sẽ gặp khó khăn về chi phí cũng như khả năng tiến hành thủ tục đăng ký và theo dõi hành vi xâm phạm của các đối thủ. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp với một nhãn hiệu tập thể sẽ khắc phục được các khó khăn đó, đồng thời năng cao được sức cạnh tranh cho sản phẩm của mình. Sau khi đã thiết lập được vị thế cho nhãn tập thể đó, mỗi doanh nghiệp sẽ phát triển nhãn hiệu riêng của mình cùng với và dưới cái ô nhãn hiệu tập thể nói trên. Do đó, nhãn hiệu tập thể là hình thức đặc biệt phù hợp để bảo vệ và phát triển nông, lâm, thuỷ sản và các sản phẩm làng nghề của nước ta.

Một hình thức đặc biệt khác để bảo vệ các đặc sản địa phương là bảo hộ chỉ dẫn địa lý (trước đây, theo Bộ Luật Dân sự năm 1995, đối tượng này được gọi là tên gọi xuất xứ). Bằng hình thức bảo hộ này, nhiều nhà sản xuất/kinh doanh một loại đặc sản trong một khu vực địa lý xác định có thể cùng nhau xin phép Nhà nước đăng ký một chỉ dẫn địa lý để cùng sử dụng chung nhằm bảo vệ uy tín của đặc sản qua việc đảm bảo chất lượng đặc thù và nguồn gốc của đặc sản. Tương tự như đối với nhãn hiệu tập thể, sau khi đã thiết lập được vị thế của chỉ dẫn địa lý đó, mỗi doanh nghiệp sẽ phát triển nhãn hiệu riêng của mình cùng với và dưới cái ô chỉ dẫn địa lý.

Ngoài hai hình thức đặc biệt nêu trên, chúng ta cũng có thể sử dụng hình thức nhãn hiệu chứng nhận để bảo vệ các đặc sản. Ở hình thức này, một cơ quan Nhà nước hoặc doanh nghiệp, có chức năng chứng nhận là chủ một nhãn hiệu chứng nhận, cho phép có điều kiện các doanh nghiệp khác sử dụng nhãn hiệu chứng nhận trong hoạt động sản xuất kinh doanh một hoặc nhiều sản phẩm/dich vụ. Cũng giống như hai hình thức bảo hộ trên đây, mỗi doanh nghiệp sử dụng nhãn hiệu chứng nhận này có thể phát triển nhãn hiệu riêng của mình cùng với và dưới cái ô nhãn hiệu chứng nhận.
Do bản chất cộng đồng, nên các chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận thường được xã hội nhìn nhận là các thương hiệu cộng đồng hay thương hiệu cho các đặc sản địa phương.

Lợi ích của bảo hộ thương hiệu cho đặc sản địa phương

Việc bảo hộ thương hiệu cho đặc sản địa phương mang lại các lợi ích sau:

• Lợi ích của người sản xuất

– Có được lợi thế cạnh tranh trên thị trường.
– Giúp nhà sản xuất duy trì được lượng khách hàng truyền thống, thu hút khách hàng tiềm năng.
– Giúp tăng doanh số và lợi nhuận.
– Giúp nhà sản xuất đưa sản phẩm thâm nhập thị trường thuận lợi và mở rộng thị trường xuất khẩu.
– Giúp nhà sản xuất chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh (đối với các hành vi chỉ dẫn sai lệch nguồn gốc của sản phẩm).

• Lợi ích của cộng đồng

– Phát triển nông nghiệp nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
– Phát triển các ngành nghề truyền thống và các dịch vụ khác, đặc biệt là du lịch vùng.
– Tạo công ăn việc làm cho người dân, hạn chế di dân, giúp phát triển đều giữa các vùng kinh tế, ổn định kinh tế vùng.
– Góp phần gìn giữ các giá trị văn hoá, truyền thống.

• Lợi ích của người tiêu dùng

– Được chỉ dẫn bởi các dấu hiệu về khu vực địa lý được gắn trên sản phẩm.
– Yên tâm sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc thực từ khu vực địa lý với chất lượng được kiểm soát.
– Tránh các rủi ro từ việc sử dụng hàng hoá giả mạo, kém chất lượng.

Đối tượng đăng ký

Vị trí địa lý đặc biệt đã mang đến cho Việt Nam nền khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa và điều kiện tự nhiên rất đa dạng, phân hoá giữa các vùng miền trên khắp đất nước. Việt Nam lại là một nước có nền văn minh nông nghiệp lâu đời, với tổ chức cộng đồng cơ bản là xóm làng, do vậy các nông, lâm, thuỷ sản và làng nghề của chúng ta đặc biệt phong phú. Xuất phát từ những đặc điểm trên mà chúng ta nhận thấy rằng ở Việt Nam có một hệ thống các sản vật rất đa dạng và phong phú, mỗi một địa phương trên khắp đất nước Việt Nam đều có những sản phẩm mang đặc trưng của quê hương, vùng miền của mình. Người dân Việt Nam thường lấy tên chính quê hương mình gắn liền với những sản phẩm, những đặc sản của địa phương vừa như một nét đặc thù để chỉ nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm, vừa để thể hiện lòng tự hào về vùng quê mình. Đi đến bất kỳ đâu trên đất nước Việt Nam, ta cũng có thể bắt gặp những tên gọi như vậy. Sản phẩm nông nghiệp, chăn nuôi của Việt nam rất đa dạng như lương thực, thực phẩm, động vật, thực vật, hoa, quả, cây thuốc, cây công nghiệp…

Trong mỗi loại sản phẩm này đều có loại có danh tiếng gắn liền với địa danh như: khóm (dứa, thơm) Cầu Đúc, cá thát lát Hậu Giang, quýt đường Long Trị, cam sành Ngã Bảy, cam Vinh, gạo Điện Biên, gạo Một bụi đỏ Hồng Dân, khoai Lệ Bồ, nước mắm Phú Quốc, Phan Thiết; quế Trà My, hoa Đà Lạt, hoa đào Nhật Tân, hồng ngâm Bắc Kạn, vải thiều Thanh Hà, Lục Ngạn, nhãn lồng Hưng Yên, xoài cát Hoài Lộc, xoài Yên Châu, thanh long Bình Thuận, mía Kim Tân, dừa Bến Tre, hoa hồi Lạng Sơn, sâm Ngọc Linh (núi Ngọc Linh), cà phê Buôn Ma Thuột, cà phê Khe Sanh, chè Thái Nguyên, chè Mộc Châu, thuốc lào Tiên Lãng, điều Bình Phước, tiêu Quảng Trị…

Các sản phẩm đặc thù gắn với địa danh là những tài sản có giá trị, được xem như những thương hiệu mang tính cộng đồng. Đồng thời, các sản phẩm này mang tính địa phương: được nhận diện và xác nhận khái niệm “địa phương” thông qua thị trường. Đây chính là minh chứng cho việc các sản phẩm này mang đến giá trị tiềm năng dài hạn không chỉ về mặt kinh tế mà còn ở cả mặt xã hội. Yếu tố xã hội ở đây nằm ở khía cạnh sự công nhận các phong tục tập quán, làm tăng các giá trị truyền thống, điều này giúp khơi nguồn sự gắn bó giữa người dân địa phương với lịch sử và truyền thống vùng miền.

Do đó, đối tượng đăng ký nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận và chỉ dẫn địa lý cho các đặc sản chủ yếu là địa danh (dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của sản phẩm), hay nói cách khác là hiện nay chúng ta sử dụng chủ yếu địa danh để đăng ký nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận và chỉ dẫn địa lý cho các đặc sản. Việc đăng ký, bảo vệ và phát triển các địa danh gắn liền với sản phẩm không chỉ là trách nhiệm, quyền lợi của người dân trong mỗi khu vực mà còn là trách nhiệm của mỗi chúng ta.

Quản lý Nhà nước đối với địa danh

Theo quy định tại Điều 4.22, Điều 11 Luật SHTT năm 2005 và Điều 3 Nghị định số 103/2006/NĐ-CP, quản lý Nhà nước đối với các dấu hiệu chỉ dẫn nguồn gốc địa lý (địa danh) được quy định như sau:

– Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện xác lập quyền cho các dấu hiệu chỉ dẫn nguồn gốc địa lý dùng cho các đặc sản địa phương, các sản phẩm/dịch vụ truyền thống.

– Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương quản lý các dấu hiệu chỉ dẫn nguồn gốc địa lý tại địa phương.

– Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công thương, Bộ Văn hoá-Thể thao-Du lịch hỗ trợ Uỷ ban nhân dân tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương trong việc quản lý các dấu hiệu chỉ dẫn nguồn gốc địa lý tại địa phương dùng cho các đặc sản địa phương, các sản phẩm/dịch vụ truyền thống liên quan đến lĩnh vực mà mỗi Bộ quản lý.